Tiến hóa Họ_Na

Các ước tính về niên đại của nhóm thân cây của họ Annonaceae dao động đáng kể: (110,4) - 106,3 - (102,0) triệu năm trước (ước tính mật độ hậu nghiệm cao nhất - HPD)[2], (110.4) -101,7 - (99.4) Ma (ước tính mật độ hậu nghiệm cao nhất)[3], (101,46) - 98,01- (94,91) Ma[4], 91-82 ± 4 Ma[5], hay tại một khoảng thời gian nào đó trong khoảng từ 84,7 tới 62,6 Ma (các ước tính khác nhau)[6]; xem thêm trong Pirie và Doyle (2012)[7]. Sự đa dạng hóa của nhóm chỏm cây có thể đã diễn ra khoảng 92-89 Ma[4] hay khoảng 82-57 Ma[2][8][9].

Sự rẽ nhánh trong phạm vi chi Anaxagorea có thể đã bắt đầu khoảng 44 Ma[9]. Sự đa dạng hóa của phần còn lại của họ, nghĩa là phần không bao gồm Anaxagorea, có thể là trong kỷ đệ Tam, với các con số (76,6) - 68, 64,5 - (53,0) Ma cho sự phân chia giữa nhánh Ambavioid (nhánh chứa chi Ambavia và 8 chi khác) và phần còn do Erkens và ctv. (2009) đề xuất[6], hay trong khoảng 84,4 - 63,6 Ma[2][4]. Bản thân nhóm chỏm cây của nhánh Ambavioid đã đa dạng hóa có lẽ khoảng (80,9) - 57,0 - (52,3) Ma[3] hay (78) - 69,4 - (60,2) Ma[2]. Chi Futabanthus, dựa trên các hoa hóa thạch từ cuối kỷ Phấn trắng (đầu tầng Cognac, khoảng 89 Ma) ở Nhật Bản, có lẽ cũng có thể gán vào nhánh này[10].

J. A. Doyle và ctv. (2004) [8], Richardson và ctv. (2004)[11], Couvreur và ctv. (2011a) [2] và các tác giả khác thảo luận về địa sinh học lịch sử và sự đa dạng của họ này. Nút thân cây của các nhánh phân nhánh dài (LBC) và phân nhánh ngắn (SBC) có thể có niên đại tới 70-65 Ma còn nút chỏm cây tới 66,7-56,6 ± 2,3 Ma ([78,08-]67,33[-55,22] Ma - xem thêm Su & Saunders (2009); Couvreur và ctv. (2011a) để có các ước tính cho điều này và các khoảng thời gian phân kỳ các nhánh lớn khác[2][4]). Trong bất kỳ trường hợp nào, phần lớn sự rẽ nhánh chủ yếu là sau sự chia tách của các đại lục và trong kỷ đệ Tam. Couvreur và ctv. (2011a)[2] làm rõ sự tương phản trong các mô hình đa dạng hóa của nhánh phân cành dài và phân cành ngắn, với nhánh phân cành dài bắt đầu đa dạng khoảng 66 Ma còn nhánh phân cành ngắn thì muộn hơn nhiều, khoảng 33 Ma; nhánh đầu có sự đa dạng lớn hơn, gấp khoảng 2 lần nhánh thứ hai về số lượng loài, ngay cả khi điều khá nghịch lý là nhánh thứ hai có thể có tốc độ đa dạng hóa cao hơn - nếu như điều đó xảy ra (xem Couvreur và ctv. (2011a) [2] để có các ước tính khác về niên đại của các nhánh này, một số trong đó không chỉ ra khoảng trống rõ ràng như vậy trong sự bắt đầu sự đa dạng hóa của chúng). Su và Saunders (2009) đưa ra các niên đại cho các chia tách bổ sung trong họ, tập trung vào Pseuduvaria. Chi lớn ở Tân thế giới là Guatteria đã trải qua sự đa dạng hóa lớn tại khu vực Amazon ở Nam Mỹ có lẽ khoảng 8,8-4,9 Ma, đã di chuyển tới Nam Mỹ từ Trung Mỹ, có lẽ là từ châu Phi thông qua châu Âu[6][12][13][14].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Họ_Na http://eprints.qut.edu.au/10261/ http://eprints.qut.edu.au/15705/ http://www.biomedcentral.com/content/pdf/1471-2148... http://delta-intkey.com/angio/www/annonace.htm http://www.ingentaconnect.com/content/iapt/tax/201... http://www.nature.com/articles/s41598-017-07252-2 http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1365-... http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1365-... http://www.ars-grin.gov/cgi-bin/npgs/html/family.p...